Bối cảnh Hiệp_ước_Hải_quân_Washington

Ngay sau Chiến tranh Thế giới thứ Nhất, Vương quốc Anh nắm giữ hải quân lớn nhất và mạnh nhất thế giới, theo sau là Hoa Kỳ và xa hơn nữa là Nhật Bản, Pháp và Ý. Hạm đội Biển khơi của nước thua cuộc Đức đã bị quân Anh giam giữ. Phe đồng minh có những quan điểm khác nhau về việc bố trí cuối cùng của hạm đội Đức, với Pháp và Ý muốn hạm đội Đức chia giữa các cường quốc chiến thắng còn Mỹ và Anh muốn chúng bị phá hủy. Các cuộc đàm phán này đã trở nên vô nghĩa sau khi các thủy thủ đoàn Đức tự đánh chìm hầu hết các tàu của họ. Tin tức về việc đánh chìm  gây phẫn nộ bên Pháp và Ý, với Pháp đặc biệt không mấy ấn tượng với những lời giải thích của Anh rằng hạm đội canh chừng của họ đang đi huấn luyện nên không phản ứng kịp vào thời điểm đó. Tuy nhiên, Anh đã cùng các đồng minh của họ lên án các hành động của Đức và không có bằng chứng đáng tin cậy nào cho thấy rằng người Anh đã hỗ trợ hành động của thủy thủ Đức. Hiệp ước Versailles, đã ký ngay sau khi Hạm đội Biển khơi Đức bị đắm chìm, áp đặt các giới hạn nghiêm ngặt về quy mô và số lượng tàu chiến mà chính phủ Đức mới được phép xây dựng và bảo trì.

Tuy Mỹ, Anh, Pháp, Ý và Nhật Bản đã liên minh với nhau trong Thế chiến thứ nhất, nhưng với mối đe dọa của Đức dường như đã tan biến, một cuộc chạy đua vũ trang hải quân giữa các đồng minh cũ dường như có khả năng xảy ra trong vài năm tới.[2] Chính quyền của Tổng thống Woodrow Wilson đã công bố các kế hoạch liên tiếp cho việc mở rộng Hải quân Hoa Kỳ từ năm 1916 đến năm 1919, điều đó sẽ dẫn đến một đội tàu lớn gồm 50 thiết giáp hạm hiện đại..[3]

Để đáp lại, quốc hội Nhật Bản cuối cùng đã cấp phép xây dựng các tàu chiến để tạo cơ hội cho Hải quân Nhật Bản đạt được mục tiêu của chương trình "tám tám", với tám thiết giáp hạm hiện đại và tám thiết giáp-tuần dương. Bên Nhật bắt đầu khởi công bốn thiết giáp hạm và bốn thiết giáp-tuần dương, tất cả lớn hơn và mạnh hơn nhiều so với các lớp trước đó.[4]

Cục ước tính Hải quân Anh năm 1921 đã lên kế hoạch cho bốn thiết giáp hạm và bốn thiết giáp-tuần dương, với bốn thiết giáp hạm khác bắt đầu năm sau.[2]

Cuộc đua vũ trang mới không được công chúng Mỹ hoan nghênh. Quốc hội Hoa Kỳ đã từ chối kế hoạch mở rộng hải quân năm 1919 của Wilson, và giữa chiến dịch bầu cử tổng thống năm 1920, chính trị đã tiếp tục chính sách không can thiệp của thời kỳ tiền chiến, với rất ít sự nhiệt tình để tiếp tục mở rộng hải quân.[5] Anh và Nhật cũng có thể không đủ khả năng tiếp tục xây dựng thiết giáp hạm, với chi phí cắt cổ.[6]

Vào cuối năm 1921, chính phủ Hoa Kỳ đã nhận thức được rằng nước Anh đang lên kế hoạch cho một hội nghị để thảo luận về tình hình chiến lược ở khu vực Thái Bình Dương và Viễn Đông. Để ngăn chặn hội nghị và đáp ứng nhu cầu trong nước cho một hội nghị giải trừ quân bị toàn cầu, chính quyền Harding đã gọi Hội nghị Hải quân Washington trong tháng 11 năm 1921.[7]